Hôm nọ, trong một lần trả lời phỏng vấn một tờ báo bên
nhà, phóng viên hỏi tôi về kinh nghiệm học tiếng Anh. Câu hỏi này làm tôi suy
nghĩ và nhớ lại ngày xưa khi mới qua đây mình học tiếng Anh như thế nào. Hôm
nay, nhân lúc dưỡng bệnh, tôi viết ra để chia sẻ cùng bạn đọc xa gần.

(ảnh minh họa: internet)
Thật ra, từ
ngày qua Úc đến nay, tôi chẳng bao giờ có dịp học tiếng Anh một cách bài bản
trong trường lớp. Những ngày đầu mới đến hostel dành cho người tị nạn, tôi cũng
được cho đi học một lớp tiếng Anh, nhưng là loại dành cho người đi xin việc.
Lúc nào cũng “How are you today”, “I am fine, thank you”, “Where were you
from?”, “How long have you been here?”, v.v. Chỉ đâu một tuần là tôi bỏ học, chịu
không nổi với cách dạy như thế. Tôi bắt đầu tự học. Nói đúng ra, tôi bắt đầu tự
học từ lúc còn trong trại tị nạn bên Thái Lan. Kinh nghiệm của tôi gói gọn
trong 4 điểm: từ điển & trầm mình trong tiếng Anh, học từng chữ một, mạnh dạn
nói, và học từ báo chí & truyền thông.
1. Có một
cuốn từ điển Anh – Anh, và một cuốn sách hướng dẫn sử dụng tiếng Anh
Kinh nghiệm học tiếng Anh của tôi là phải trầm
mình trong thế giới tiếng Anh. Trong một thời gian dài, tôi không hề tiếp xúc với
tiếng Việt, không đọc báo tiếng Việt, không đọc sách tiếng Việt (thời đó cũng
chẳng có mà đọc!), không nghe đài tiếng Việt (cho đến bây giờ tôi vẫn không
nghe đài phát thanh tiếng Việt ở đây). Thay vào đó, thả mình trong thế giới tiếng
Anh, với sách báo, radio, và tivi. Cần mở ngoặc thêm để nói là thời đó thì dễ,
còn bây giờ thì chắc khó, do có internet làm sao lãng việc học.
Phải có một
cuốn từ điển tốt để học tiếng Anh. Quên đi những từ điển Anh – Việt, hay tệ hơn
nữa là Việt – Anh! Tìm một cuốn từ điển Anh – Anh. Một từ điển tốt có thể ví
như kinh thánh! Thời còn ở trại tị nạn, tôi may mắn tiếp xúc cuốn từ điển
LONGMAN, và tôi thích cuốn này ngay từ ngày đầu. Hình như cuốn này được soạn cho người nước
ngoài (tức không dùng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ). Từ điển giải thích thật rõ ràng về ý nghĩa của
chữ, cách dùng như thế nào, và cách phát âm.
Thời đó, rất hiếm có một cuốn từ điển nào đầy đủ và thực tế như Longman.
Sau này khi sang Úc và cho đến nay tôi vẫn dùng Longman làm từ điển.
Tôi
nghiệm ra một điều là cách sử dụng tiếng Anh cho đúng còn quan trọng hơn cả văn
phạm tiếng Anh. Cũng trong thời còn ở trong trại tị nạn Thái Lan tôi may mắn
tiếp xúc với cuốn Practical English Usage của Michael Swan, đúng là
cuốn sách gối đầu giường của tôi. Thoạt
đầu tôi chỉ đọc để nhập tâm, nhưng sau này tôi thấy như vậy chưa khá, phải viết
xuống. Viết xuống bằng tiếng Việt. Sau
vài tháng tôi phát hiện quyển vở của mình đã trở thành một bản dịch của cuốn
sách mình học! Bài học ở đây là cách học hay nhất là mình phải viết xuống những
gì mình học (chứ đọc hay nhập tâm vẫn chưa đủ), và nếu cần dịch sang tiếng Việt.
2. Học
từng chữ và học từ gốc
Mỗi
ngày, cố gắng học một chữ tiếng Anh. Nhưng phải học cẩn thận và học cho hết chữ
đó. Tôi muốn nói đến ngoài việc học để biết nghĩa của chữ đó, còn phải học (a)
nguồn gốc của chữ này đến từ đâu; (b) những biến thể tính từ, động từ, danh từ
của chữ; và (c) cách sử dụng như thế nào.
Chẳng hạn như học chữ produce (động từ và danh từ), cần phải
học thêm những biến thể như production, product, productive, v.v.
phải học cho thật kĩ và biết tận ngọn ngành của chữ. Từ điển Longman rất có ích
cho việc học này. Do đó, nói là học một chữ một ngày, nhưng thật ra là có khi
học được 10 chữ. Cách học này rất tốt, vì nó giúp cho chúng ta có căn bản tốt
và biết chữ từ gốc chứ không phải từ ngọn.
Biết cái gì từ gốc vẫn hay hơn biết từ ngọn.
Ngữ
vựng cực kì quan trọng. Theo tôi, có một kho tàng ngữ vựng tốt còn có giá trị
hơn là am hiểu cú pháp và văn phạm. Thời gian chúng ta có thể tiếp thu ngữ vựng
có hạn, còn thời gian chúng ta học văn phạm thì không giới hạn. Do đó, tranh
thủ mọi cơ hội để học ngữ vựng.
3. Mạnh dạn nói
Học tiếng
Anh là phải học nói. Nhưng một trong những điểm yếu của người Việt là chúng ta
phát âm không tốt, từ đó dẫn đến ngại nói chuyện, vì sợ người đối diện không hiểu.
Cá nhân tôi cũng trải qua kinh nghiệm này khi còn làm trong nhà bếp. Những ngày
đó, tôi rất yếu về tiếng Anh và nói nhiều khi chẳng ai hiểu, nên cứ mỗi lần có
điện thoại reo là tôi rất … sợ. Sợ trả lời vì mình nói mà bên kia không hiểu
thì rất phiền phức cho công việc. Nhưng anh bạn làm chung biết điểm yếu đó và
muốn giúp tôi, nên cứ mỗi lần điện thoại reo, anh ta chỉ tôi phải nghe và trả lời
điện thoại. Ấy thế mà vài lần tôi quen, quen với những câu chữ mình phải/nên
nói khi bắt điện thoại, quen với phát âm, quen với chữ trong nghề (lúc nào cũng
học ngữ vựng), và quen với cách nhấn giọng, v.v. Từ quen tôi trở thành tự tin hồi
nào không hay. Do đó, bài học tiếng Anh có hiệu quả là phải mạnh dạn nói. Nói
sai thì sửa. Nói người ta không hiểu thì nói lại. Nói chữ nào người ta không rõ
thì mình đánh vần cho họ hiểu.
Tôi cũng phải
mở ngoặc để chia sẻ một kinh nghiệm lí thú ở đây về chuyện phát âm. Có một số
người ngoại quốc, vì lí do nào đó (có thể muốn trêu chọc hoặc muốn làm nhục)
nên giả bộ họ không hiểu mình nói. Cách họ làm thường là “I beg your pardon”
2,3 lần, hoặc nghễnh tai làm như họ không nghe hay nghe mà không hiểu. Tôi có
quá nhiều kinh nghiệm, nên chỉ cần nhìn qua là biết người không hiểu thật là là
người muốn hạ nhục. Họ đặc biệt thích làm điều đó (hạ nhục / trêu chọc) với các
nạn nhân người Á châu. Nếu chúng ta tự tin rằng chúng ta nói rõ mà họ làm điều
đó, thì chúng ta có thể nói thẳng cho họ biết “đừng chơi trò với tao”. Tôi đã
làm vài lần với vài người. Có một lần một tay người Úc, hắn cứ đưa cái tai gần
tôi làm như hắn không hiểu tôi nói gì; cách tôi phản ứng là tôi thản nhiên ghé
vào tai hắn và nói thật lớn để mọi người chung quanh nghe: “Tao nói cho hàng
trăm, hàng ngàn người, và họ hiểu & ghi chép những gì tao nói. Vậy thì mày
đừng có giả bộ không hiểu nhé. Cái trò này xưa lắm con ạ.” Một lần khác trong hội
nghị, tôi cũng bị một người giả bộ “I beg your pardon” 2 lần dù tôi đã giải
thích khá rõ và ban chủ toạ cũng đồng ý, nhưng đến lần thứ hai thì tôi mất kiên
nhẫn và có phản ứng: cả hội trường này gần 1000 người, ai cũng hiểu tao nói, những
thuật ngữ tao dùng dân trong nghề đều biết, vậy mà mày không hiểu và không biết,
tao nghĩ đó là vấn đề của mày chứ không phải vấn đề của tao, tao không có nhu cầu
nói lại, ok. Đừng bao giờ tỏ ra thấp khi
đối đầu với những kẻ muốn gây chuyện.
4. Học từ báo chí và truyền thông
Báo chí và
truyền thông là phương tiện rất có ích để học phát âm. Thời 1980s, dĩ nhiên là
chưa có internet, nên mỗi ngày tôi phải mua tờ nhật báo Sydney Morning Herald về, và đọc những bản tin chính. Đó là một tờ
báo cực kì nổi tiếng và hay. Chắc chắn không bằng tờ New York Times, nhưng phong phú thì chẳng kém gì Los Angeles Times. Thông thường, mỗi bản tin thời sự, họ có dùng
một vài chữ “mới” (mới với tôi), hay những chữ mang tính địa phương. Dĩ nhiên, tôi chưa đủ trình độ để hiểu hết nội
dung bản tin, nhưng mò mẩm bằng từ điển thì cũng nắm được những bản tin
chính. Chẳng hạn như có lần báo chí nói
đến thái độ của đương kim thủ tướng lúc đó (Paul Keating) là recalcitrant. Tôi chẳng hiểu chữ này có nghĩa gì đến khi
truy trong từ điển Longman. Nhưng mỗi
ngày “khám phá” được một chữ mới như thế làm cho mình có lí do để vui sống và học
tập.
Điều quan trọng
là biết phát âm những chữ mới, và tôi phải đợi đến buổi chiều, bậc tivi để nghe
người đọc tin, và học cách phát âm từ họ.
Ở Úc (và nơi khác chắc cũng vậy), các bản tin chính in trên mặt báo thường
được các đài truyền hình phát lại trong bản tin buổi tối của họ. Mặc dù họ không dùng những chữ giống như trên
mặt báo (vì như thế là đạo văn) nhưng cách họ phát âm tên của nhân vật, những danh
từ quan trọng trong câu chuyện, hay những chữ mà tôi rõ nghĩa nhưng không rõ
cách phát âm, tôi đều học qua bản tin này.
Có lần tôi không biết đọc chữ allowance
ra sao, thì may quá, buổi chiều có tranh cãi về vụ này nên tôi mới biết
cách phát âm. Học từ báo chí và tivi phải nói là rất có ích.
Tuy nhiên, vấn
đề không chỉ là đọc tin, mà học cách viết trong các bài chính luận. Những tay bỉnh bút viết chính luận thường là
bậc thầy về tiếng Anh. Họ rất giỏi về viết và từ ngữ. Không chữ nào họ dùng
trong bài viết là thừa. Có những người kì cựu như Alan Ramsey thì mỗi bài viết
là mỗi bài học tuyệt vời cho tôi. Tôi học cách cấu trúc câu văn, dùng chữ cho tốt,
và tinh tế. Sau này, khi hướng dẫn các bạn thế hệ sau về cách viết bài báo khoa
học tôi vẫn lấy ví dụ của Alan Ramsey ra làm ví dụ.
Sau này, tôi
còn học thêm một người khác về kĩ năng tiếng Anh: người đó là Samuel P.
Huntington. Ông là một giáo sư chính trị học nổi tiếng của Mĩ. Nhưng ngoài
chuyên môn đó, ông là một người viết văn tuyệt vời. Các bạn nếu có dịp nên tìm
đọc những bài luận văn của ông ấy, và sẽ thấy từ cấu trúc ý tưởng, đến triển
khai bằng tiếng Anh, tất cả đều xảy ra một cách logic. Quan trọng hơn là ông
dùng chữ chính xác, những câu văn trong đoạn văn ăn khớp với nhau một cách nhịp
nhàng, không chê vào đâu được. Tôi thấy mỗi bài luận văn của ông là mỗi bài học
mới về viết bằng tiếng Anh.
Những kinh
nghiệm trên, dĩ nhiên, chỉ áp dụng cho những người mới học tiếng Anh. Tôi muốn
nhấn mạnh một lần nữa là học phải có cuốn sổ ghi chép. Đừng bao giờ nghĩ rằng
chỉ đọc và nhập tâm là đủ. Đừng bao giờ nghĩ như thế! Tôi nghiệm ra là học là
phải có sờ, phải viết xuống, phải có “action” thì mới có hiệu quả. Sờ con chữ
có nghĩa là lấy bút màu tô đậm những chỗ mình thích. Viết xuống để mình nhớ, để
có cảm nhận trực tiếp. Nếu chỉ đọc một qui định văn phạm thì chưa đủ, mà phải
viết xuống thì mới dễ nhớ. Viết có hiệu quả rất tuyệt vời trong cảm nhận mà có
khi chúng ta không để ý.
Nguyên tắc học
hành là phải có outcome – thành quả. Mỗi ngày phải học được một cái gì mới, hoặc
là một chữ mới, hoặc là một câu văn hay, hoặc là một luật văn phạm, v.v. nhưng
phải có một cái mới. Học mà không có cái mới thì rất dễ chán. Do đó, phải tự đặt
mục tiêu outcome mỗi ngày như tôi vừa nói.
Tác giả: Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
Bài gốc tại đây
Không có nhận xét nào
Đăng nhận xét